Ngày 17 tháng 6 năm 2021, Sở Tư pháp ban hành Công văn số 752/STP-BTTP trao đổi một số nội dung của quy định pháp luật đối với Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Theo đó, về hình thức của Hợp đồng hợp tác được quy định tại Điều 504 Bộ luật Dân sự năm 2015, Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Hiện nay, pháp luật dân sự không quy định Hợp đồng hợp tác phải công chứng, chứng thực, vì vậy, Hợp đồng hợp tác chỉ cần lập thành văn bản nhưng phải đảm bảo nội dung của hợp đồng.
Hợp đồng hợp tác phải đảm bảo các nội dung chủ yếu tại Điều 505 Bộ luật Dân sự năm 2015, bao gồm: Mục đích, thời hạn hợp tác; họ, tên, nơi cư trú của cá nhân; tên, trụ sở của pháp nhân; tài sản đóng góp, nếu có; đóng góp bằng sức lao động, nếu có; phương thức phân chia hoa lợi, lợi tức; quyền, nghĩa vụ của thành viên hợp tác; quyền, nghĩa vụ của người đại diện, nếu có; điều kiện tham gia và rút khỏi hợp đồng hợp tác của thành viên, nếu có; điều kiện chấm dứt hợp tác.
Ngoài ra, chủ thể giao kết hợp đồng cũng rất quan trọng, trong trường hợp hợp tác giữa pháp nhân với pháp nhân thì cần xét đến người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020. Theo đó, khoản 1 Điều 12 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Vì vậy, khi giao kết Hợp đồng hợp tác cần đảm bảo về mặt hình thức, nội dung và chủ thể giao kết hợp đồng phù hợp quy định pháp luật dân sự./.
Thể Xuyên